Pháp sư

[Tập 3]:Đề Mục Trung Phong Hệ Niệm Pháp Sự Tam Thời Toàn Tập



B. Giải thích đề mục 

 
      Chư vị đồng học!   

    Xin hãy xem đề mục Hệ Niệm Pháp Sự. Đề mục tổng cộng mười chữ: “Trung Phong Hệ Niệm Pháp Sự Tam Thời Toàn Tập” (中峰繫念法事三時全集).Bản tôi dùng ở đây là bản in của Hoa Tạng Đồ Thư Quán, tục ấn[6] năm Dân Quốc 79 (1990). Tôi dựa theo cách đánh số trang trong bản in này, có những bản in khác có số trang hơi khác, bất quá đại khái cũng tương đồng.
 
    Trung Phong là pháp hiệu của thiền sư Minh Bổn đời Nguyên, ở trên tôi đã giới thiệu cùng quý vị rồi. Ngài là một vị đại đức rất phi thường, hữu tu, hữu chứng, hữu đức, hữu học. Qua truyện ký, chúng ta đã thấy sự tích cả một đời của lão nhân gia, đúng là khiến người ta cảm thấy năm vóc gieo sát đất. Tác phẩm Hệ Niệm Pháp Sự do vị đại đức nhà Thiền này soạn ra, ý nghĩa rất sâu. Thưa cùng quý vị! Phật pháp đến tối hậu vẫn phải là cầu sanh Tịnh Độ, điều này Ngài khai thị rất rõ rệt! Do đây, ta có thể thấy được sự thù thắng của pháp môn Tịnh Độ. Huống chi kinh Hoa Nghiêm, là một bộ kinh được lịch đại cao tăng đại đức Trung Quốc công nhận là bản kinh đệ nhất của nhà Phật, là pháp luân viên mãn, đến cuối kinh, mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc. Tông môn đến cuối cùng cũng cầu vãng sanh, quý vị chỉ cần đọc Thiền Môn Nhật Tụng sẽ thấy rành rành. Phương pháp tu hành này hiển thị rõ trí huệ tối cao. 
 
    Bản Hệ Niệm Pháp Sự Tam Thời Toàn Tập này lợi ích kẻ âm lẫn người dương. Nếu coi [việc tụng niệm] bản [nghi thức] này như chuyện kinh sám Phật sự, miệng có, tâm không, thì trật mất rồi! Chúng ta phải coi nó như là khóa tụng cần phải tu tập.
 
      “Hệ niệm”: Khi La Thập đại sư dịch Phật Thuyết A Di Đà Kinh, đã dịch ý chữ này; bởi thế, trong kinh văn có những câu như “nhất tâm bất loạn, tâm chẳng điên đảo”. Trong quá khứ, tôi cũng đã từng nghe có người nói: “Nhất tâm bất loạn, bọn phàm phu chúng ta chẳng thể làm được; bởi thế, đối với pháp môn này bèn nẩy sanh ngờ vực, chẳng dám đảm đương”. Nhưng kinh A Di Đà còn có bản dịch của Huyền Trang đại sư. Huyền Trang đại sư dịch thẳng, chiếu theo bản tiếng Phạn mà dịch thẳng ra. Trong bản Phạn ngữ có mười phương Phật, bản của La Thập đại sư chỉ có sáu phương Phật, cho thấy La Thập đại sư đã dịch rút gọn. Trong bản Huyền Trang, “nhất tâm bất loạn” được dịch là “nhất tâm hệ niệm”. Nếu nói “nhất tâm hệ niệm” thì phàm phu có thể làm được, chứ mức độ nhất tâm bất loạn thì cao quá. 
 
      Nếu chúng ta hỏi: La Thập đại sư có dịch sai nghĩa chăng? Thưa cùng quý vị, chẳng bao giờ sai! Phàm là người vãng sanh, nhất định phải niệm đến nhất tâm hệ niệm, lúc lâm chung, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, lúc tiếp dẫn quý vị, nhất định Phật phải phóng quang. A Di Đà Phật phóng quang, Phật quang chiếu gội; Phật quang vừa chiếu, công phu của quý vị được nâng cao, từ Nhất Tâm Hệ Niệm đạt đến Nhất Tâm Bất Loạn. Vì thế, đại sư La Thập chẳng hề dịch lầm. Đích thực là đại sư thấy vấn đề này rất rõ ràng, rất minh bạch! 

    Chữ “niệm” (念) trong văn tự Trung Quốc thuộc loại hội ý. Quý vị thấy ở trên là chữ Kim (今), dưới là chữ Tâm (心); nghĩa là trong cái tâm hiện tại có Phật. Trong tâm phải có thì mới gọi là Niệm. Chẳng phải là quá khứ có, chẳng phải là vị lai có, mà là “kim” (nay), hiện tại có, đó gọi là Niệm. “Hệ niệm” là niệm niệm chẳng bỏ. 
 
      “Tam thời”: Trong pháp sự có đệ nhất thời, đệ nhị thời, đệ tam thời. Ở Ấn Độ vào thời cổ, một ngày đêm được chia thành ngày ba thời, đêm ba thời. Do đây biết rằng, phải hiểu nghĩa chữ “tam thời” theo nghĩa rộng, tức là ngày đêm chẳng biếng nhác.
 
“Pháp” là phương pháp, “Sự” là chuyên cầu vãng sanh Tịnh Độ. Hiện tại, mọi người tu pháp sự này, dùng chữ “tam thời” theo nghĩa hẹp. Ở Trung Quốc, chia ngày đêm thành mười hai thời thần: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Một thời thần bằng hai giờ hiện thời. Nếu để giúp người khác, như các vong linh được nhắc đến trong bản này, thì cả hai nghĩa rộng và hẹp đều dùng được, hoàn toàn phụ thuộc vào thời tiết, nhân duyên. 
 
“Pháp”: Trung Phong quốc sư vì chúng ta chế định pháp bản này, chiếu theo pháp bản này để tu pháp sự cầu vãng sanh, pháp sự ở đây là cầu vãng sanh. Bản này gồm ba thời hoàn chỉnh nên gọi là “toàn tập”. Quý vị hãy xem chữ “tập”; Tập nói như bây giờ là bản hội tập. Pháp sự này do Trung Phong quốc sư hội tập. Quý vị thấy đó, nội dung gồm tán tụng, có Hương Tán, có kệ Tán Phật, có tán Phật, có tụng kinh, có kinh A Di Đà, có niệm chú, có chú Vãng Sanh, có lễ bái, có sám hối, có hồi hướng. Tu pháp (cách thức tu tập) rất viên mãn, ý nghĩa tương đồng với Vãng Sanh Luận của Thiên Thân Bồ Tát. Trong Vãng Sanh Luận, Thiên Thân Bồ Tát nói đến Ngũ Niệm pháp môn, bản Hệ Niệm này cũng là ngũ niệm pháp môn. Tu hành Tịnh Độ là phương pháp tốt đẹp, trong ấy có khai thị. Chúng tôi đề xướng bản này đã mấy năm, mọi người đều rất thông thuộc. Trong nghi quỹ, có phần chúng tôi tỉnh lược[7], và trong Tam Thời có phần nào trùng lập, chúng tôi chỉ giảng một lần là đủ, làm như vậy sẽ tiết kiệm thời gian. 
 
C. Chánh thức giảng vào kinh văn 

1. Hương Tán 
 
      Giới định chân hương, 
      Phần khởi xung thiên thượng, 
      Đệ tử kiền thành, 
      Nhiệt tại kim lư phóng, 
      Khoảnh khắc nhân uân, 
      Tức biến mãn thập phương. 
      Tích nhật Da Thâu, 
Miễn nạn tiêu tai chướng. 
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát.
 
戒定真香
焚起衝天上
弟子虔誠
爇在金爐放
頃刻氤氳
即遍滿十方
昔日耶輸,
免難消災障。
南無香雲蓋菩薩摩訶薩

(Giới định chân hương, 
Đốt xông tận trời thẳm, 
Đệ tử dốc lòng thành, 
Thắp đặt trong lư vàng, 
Khoảnh khắc khói bốc cuồn cuộn, 
Tỏa khắp mười phương, 
Xưa bà Da Du, 
Thoát nạn tiêu tai chướng. 
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát).

 
      Đoạn thứ nhất là Hương Tán. Ở đây, đại sư vì chúng ta kết tập bài “Giới Định Chân Hương”, dùng bài Hương Tán này. Vì sao chẳng dùng bài “Lư Hương Tán”? Bài Lư Hương Tán phổ biến nhất; vì sao dùng bài Giới Định Chân Hương? Cả đời đại sư dạy người chú trọng đức hạnh. Ngài sống cách chúng ta hơn bảy trăm năm, hơn bảy trăm năm, Sư cảm nhận sâu xa phong hóa thế gian ngày một suy đồi, hàng đệ tử Phật môn (chỉ người xuất gia tu hành) chân tu đã ít ỏi lắm rồi. Sáng hôm nay, tôi đã giới thiệu ngắn gọn, đơn giản về Ngài rồi, quý vị đã nghe qua. Vì đâu tham Thiền chẳng được lợi ích, Sư giảng vì đâu tham Thiền chẳng linh? Vì sao chẳng bằng cổ nhân? Có nguyên nhân cả, ta phải tìm cho ra nguyên nhân. Bởi thế, trong phần Hương Tán, chúng ta đừng nghĩ Ngài tùy tiện dùng bài Giới Định Chân Hương đấy nhé, có dụng ý rất sâu đấy! 
 
      Pháp sám hối xuyên suốt toàn bộ sự tu hành trong Phật pháp, bất luận là Tông Môn, Giáo Hạ, Đại Thừa, Tiểu Thừa, Hiển Giáo, Mật Giáo, không một hạnh môn nào chẳng phải là pháp sám hối! Sám hối phải có thành ý, phải có hành động, chẳng phải là miệng nói xuông, miệng nói xoen xoét chẳng ích gì! Vậy, rốt cuộc phải sám hối theo cách nào? Phải y giáo phụng hành, quý vị tích cực nỗ lực làm theo mọi điều Phật, Bồ Tát dạy dỗ, đó là chân sám hối! Chúng tôi thường nhắc mọi đồng học phải cùng gắng sức dốc công gạt bỏ tập khí vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, triệt để buông xuống, chẳng để có mảy may xen tạp, nhất tâm nhất ý cầu sanh Tịnh Độ. Đó là đại sự sanh tử! Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta luân hồi trong lục đạo chẳng thể giải quyết được vấn đề, chúng ta phải giác ngộ, phải hiểu rõ. 
 
    Điều này thật chẳng dễ dàng gì! Nhà Phật thường nói: “Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ”, một đời này gặp được Phật pháp; gặp được Phật pháp là gặp cơ hội để liễu sanh tử, xuất tam giới. Gặp được cơ hội chớ coi thường, bỏ lỡ, nhất định phải ghì chặt lấy, trong một đời này quyết định thành tựu, chẳng bị luân hồi nữa. Tùy thuận tập khí phiền não là tạo luân hồi, vẫn luân hồi trong sáu nẻo y như cũ. Đấy là điều Quốc Sư trông thấy, rất mực cảm thán; đấy là một nhân tố quan trọng khiến công phu tu hành chẳng đắc lực. Trong suốt cuộc đời dạy dỗ của lão nhân gia, Ngài thường cảnh tỉnh “sanh tử sự đại”. Phải biến sự việc này thành một sự lớn lao nhất mà chúng ta phải thực hiện trong một đời này thì chúng ta mới được cứu. Bởi thế, mở đầu [Tam Thời Hệ Niệm Pháp Sự], Ngài chọn bài Giới Định Chân Hương. 
 
    Quý vị hãy xem [ý nghĩa của] danh tự, thế nào là Chân Hương? Giới và Định là Chân Hương, nói thật đấy, chẳng phải giả đâu! Ngay trong thời đại chúng ta đây, những năm trước đây, không lâu mấy; chúng tôi không được thấy sự việc trong nửa thế kỷ trước, nhưng có rất nhiều người thấy, chúng tôi nghe đích thân họ kể lại. Hư Vân lão hòa thượng tu Giới, tu Định, chân tu. Lão hòa thượng cả năm tắm một lần, cạo tóc một lần; bởi vậy, chúng ta thấy rất nhiều ảnh chụp tóc Ngài rất dài. Quý vị xem tóc Ngài dài như thế mà một năm mới cạo tóc một lần, tắm một lần, cổ áo Ngài ghét (hờm) đóng dày cộp, đen thui, nhưng thơm tho, không hề khó ngửi chút nào. Đấy  là  Giới  Định  Chân  Hương, thân  tỏa 
mùi thơm. 
 
      Ngoài ra còn có vị Kim Sơn Hoạt Phật (Phật sống chùa Kim Sơn), Ngài sống suốt hai mươi mấy năm Dân Quốc, rất tiếc là khi ấy chúng tôi còn nhỏ tuổi quá, không biết Ngài. Suốt đời, Kim Sơn Hoạt Phật không rửa ráy, tắm gội. Trên thân khoác một bộ quần áo, bộ quần áo ấy chưa hề được giặt giũ. Suốt đời chưa từng giặt quần áo, Ngài cũng chưa từng tắm gội, trên thân tỏa mùi thơm. Đó là Giới Định Chân Hương.
 
      Chúng ta thắp một cây nhang, phải tưởng đó là Giới, phải tưởng đó là Định. Hương tượng trưng cho Pháp. Đệ tử Phật, bất luận tại gia hay xuất gia, cúng Phật nhất định phải thắp nhang, phải đốt đèn, phải dâng nước. Đó là ba thứ vật cúng đơn giản nhất để cúng Phật, Bồ Tát; bớt đi những thứ khác không ăn nhằm gì, nhưng những thứ trên không thể bớt được! Hương tượng trưng cho gì? Hương tượng trưng cho Giới, Định; thấy hương, nghe mùi hương, phải tưởng Giới Định. Chư Phật, Bồ Tát tu Giới, tu Định thành tựu. Giờ đây, các Ngài cũng dạy chúng ta như thế. 
 
      Đăng (đèn) tượng trưng cho ánh sáng trí huệ, ngụ ý đốt mình soi sáng người khác. Trí huệ chẳng phải là Tự Thọ Dụng, mà là Tha Thọ Dụng. Trí huệ do đâu mà có? Trí huệ phát xuất từ Giới, Định. Nhân Giới sanh Định, nhân Định khai Huệ. 
 
    Nước tượng trưng cho tâm tánh. Tất cả hết thảy vật cúng khác đều chẳng cần thiết lắm, bởi lẽ hiện tại cuộc sống con người bước vào thời đại công nghiệp, nhà cửa (đặc biệt là tại đô thị) quá nửa sống trong chung cư (apartment). Một tòa cao ốc có cả mười gia đình sống, có tòa nhà cả trăm gia đình sống. Nhà càng dựng về sau càng thấp lè tè. Vì sao vậy? Để tiết kiệm năng lượng. Mùa Đông mở máy ấm, mùa Hè mở máy lạnh, bởi thế trần nhà càng thấp, phòng ốc cũng hẹp hơn để tiết kiệm năng lượng. Gian phòng thấp như thế, chúng ta vói tay là đụng trần nhà rồi. Bởi thế, nếu thờ Phật ở nhà, nói chung phải thờ tượng Phật nhỏ, đương nhiên đốt nhang chẳng thích hợp. 
 
      Hương đốt, đèn dầu, nến đều chẳng thích hợp, vì sao vậy? Chúng có chất muội (bồ hóng), muội dầu làm đen nhà. Nhà cửa hẹp quá, chẳng như tự viện điện đường rất lớn, không khí lưu thông, nhà cao, nên chẳng có vấn đề gì. Bởi thế, hiện tại ở chung cư [cúng hương, đèn] chẳng thích hợp lắm, tốt nhất là cúng nước. Nước rất quan trọng, nó tượng trưng thanh tịnh bình đẳng. Tâm ta trong sạch như nước, bình đẳng hệt như nước. Nước biểu thị những ý nghĩa đó. Trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, phải luôn giữ được thanh tịnh - bình đẳng - giác, chỉ cần tâm thanh tịnh tự nhiên sẽ có trí huệ, Giác là trí huệ. 
 
      Vật cúng nhằm biểu thị pháp, nước chẳng phải để cho Phật, Bồ Tát uống; phải hiểu ý nghĩa này. Chén cúng tốt nhất là dùng thứ trong suốt, biểu thị ý nghĩa vô cùng sáng rõ. Ngoài chén có thể nhìn thấy nước trong sạch đựng bên trong. Chớ nên cúng trà, trà có màu, chẳng trong sạch, phải cúng bằng nước. Bởi thế, hiểu được ý nghĩa biểu thị pháp thì mỗi khi trông thấy chén nước cúng, liền nghĩ tâm ta phải thanh tịnh, phải bình đẳng. Từ việc cúng nước phải biểu lộ được ý nghĩa của pháp được biểu thị. Bất luận nơi đâu, hễ trông thấy nước, như lúc quý vị đang khát, uống một chén nước, thấy nước bèn nghĩ đến “thanh tịnh - bình đẳng - giác”. Giáo học Phật pháp dùng phương pháp này để thời thời khắc khắc cảnh tỉnh chúng ta, vừa trang nghiêm lại vừa đẹp mắt, lại bao hàm ý nghĩa thật phong phú. 
 
      “Giới định chân hương”: Đây là lúc thắp hương.    

  “Phần khởi xung thiên thượng”: Hương vừa thắp lên, khói hương bốc tận trời. “Xung thiên thượng” (xông lên trời) là mong cầu cảm ứng. Chư Phật, Bồ Tát, thiên thần đều ở phía trên chúng ta. Phía dưới có chăng? Có! Phía dưới là hạ phương thế giới. Vì thế, đối với chữ “thiên thượng” ở đây, chúng ta phải hiểu nó hoàn toàn chẳng chỉ có nghĩa là phương trên, mà còn có nghĩa là pháp giới. Như trong kinh Hoa Nghiêm, [nói] Thiện Tài tham học năm mươi ba lần, thiện tri thức đều ở phương Nam là có đạo lý đấy! Chúng ta sống tại Bắc bán cầu, phương Nam của Bắc bán cầu thuộc Hỏa, phương Nam là gì? Là xích đạo, là nhiệt đới. Phương Bắc là hàn đới. Phương Bắc là nước, phương Nam là lửa. Lửa tượng trưng cho quang minh. Bởi thế “phương Nam” chẳng phải là phương vị, mà có nghĩa là quang minh. Phàm những nơi thiện tri thức cư ngụ đều gọi là phương Nam, ở bất cứ phương hướng nào cũng đều gọi là phương Nam cả. Phàm thành đô nào có thiện tri thức cư ngụ đều gọi là Phước Thành cả. Vì sao vậy? Vì có thiện tri thức. Có thiện tri thức thì địa phương ấy có phước, nên gọi là Phước Thành nhằm biểu thị ý nghĩa pháp. 
 
      Bởi thế, chốn “thiên thượng” ở đây không có nghĩa là phương trên, chẳng biểu thị phương vị phía trên, chẳng ngụ ý như thế, mà có nghĩa là thượng phương tôn kính, phương trên tôn kính nhất của chúng ta. Ở “thượng phương” đó, chư Phật, Bồ Tát đang ở. Chúng ta đọc kinh A Di Đà, Đông, Nam, Tây, Bắc, trên, dưới, đâu đâu đều có Phật, Bồ Tát. Dùng chữ “thiên thượng” để biểu thị ý tôn kính của chúng ta. “Phần khởi xung thiên thượng” là mong cầu cảm ứng. 
 
    “Đệ tử kiền thành”: Người tu hành theo Hệ Niệm Pháp Sự, chúng ta  đối với Phật, Bồ Tát xưng là “đệ tử”; Phật, Bồ Tát là thầy, là thiện tri thức của chúng ta. Đạo thầy trò cốt ở “kiền thành”. Ấn Quang đại sư giảng rất hay: “Nhất phần thành kính tắc nhất phần cảm ứng, thập phần thành kính tắc thập phần cảm ứng” (Một phần thành kính là một phần cảm ứng, mười phần thành kính bèn được mười phần cảm ứng). Khi xưa, thầy Lý dạy tôi như vậy. Chúng ta dùng tâm tư thái độ nào để học tập thì mới đạt được lợi ích chân chánh? Chúng ta kém cổ nhân rất xa, đừng nói đến thời cổ, chỉ sánh với Trung Phong quốc sư, chúng ta làm sao sánh bằng Ngài được? Ngài chỉ mười lăm tuổi, chẳng những dốc chí nơi việc học, lại còn dốc chí nơi đạo; so với học, đạo lại cao hơn một tầng. Quý vị xem trong truyện ký thì thấy đêm ngày Ngài siêng gắng nơi pháp thế gian lẫn xuất thế gian. Đúng là dũng mãnh tinh tấn như kinh điển đã nói, đêm ngày chẳng ngưng nghỉ. Kinh điển sách vở Nho - Thích - Đạo ba tông, Ngài đều xem cả, căn bản rất sâu dày. 
 
      Năm hai mươi bốn tuổi Ngài khai ngộ. Tuy chưa phải là triệt ngộ, chúng tôi nói đến tiểu ngộ, đại ngộ; thế nào là đại ngộ? Kinh điển, sách vở thế gian, xuất thế gian Ngài đều có thể dung hội, quán thông, chân chánh khai ngộ. Thiền sư Cao Phong Diệu ấn chứng cho Ngài vào năm hai mươi bảy tuổi, Ngài xuất gia năm hai mươi lăm tuổi. Chúng ta không cách chi sánh bằng Ngài được! Tự mình phải biết hổ thẹn, phải biết gắng sức. Trung Phong quốc sư chỉ cho chúng ta biết chứng bệnh tu hành chẳng đắc lực là vì đâu? Ngài nói rất hay, nhưng trong đó trọng yếu nhất là “chẳng biết sanh tử là việc lớn”. Trong các nhân tố, nó trọng yếu nhất, nhưng ta lại coi thường nó! Bởi thế, chẳng có tấm lòng chân thành học đạo như cổ nhân. Ấn Quang đại sư bảo người như vậy là không có thành ý, làm sao thành tựu được? Không có thành ý, không biết sanh tử là việc lớn, đã thế còn chẳng chịu buông bỏ tập khí phiền não từ vô thỉ kiếp đến nay, đó là đại chướng ngại! 
 
      Tôi thường khuyên lơn các đồng học, mỗi một người chúng ta, đặc biệt là người hiện thời, “tự tư, tự lợi, danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, tham, sân, si, mạn”, tôi nói mười sáu chữ này quý vị phải thực sự buông xuống. Trung Phong quốc sư nói rất hay, chẳng những phải thực sự buông xuống, mà còn phải buông sạch sành sanh, mảy may nào cũng chẳng giữ lại, tiêu chuẩn của lão nhân gia là như vậy. Chỉ cần có chút mảy may nào, quý vị khó lòng thành tựu. Triệt để buông xuống thì chúng ta mới có chút tiến bộ nơi Bồ Đề đạo. Những thứ căn bản chướng đạo ấy nếu quý vị chẳng dẹp trừ, sẽ vĩnh viễn bị loại ra ngoài cửa Phật, chẳng bước vào cửa được! 
 
      Chúng ta phải thường tự suy nghĩ, ngày ngày phản tỉnh vì sao chẳng buông xuống được? Phải chiếu theo lời Trung Phong quốc sư thuyết pháp! Nói cách khác là tham sống sợ chết. Tham sống, chẳng sống hoài được; sợ chết, chẳng thể tránh khỏi được. Thực sự chịu buông xuống thì cả sống lẫn chết đều xong, sau đấy mới dần dần cầu thông đạt Phật pháp. Bởi thế, hai chữ “kiền thành” này hết sức trọng yếu: Quý vị phải có thành ý. Trong lúc quý vị cắm vào lư hương, hương cháy trong lư: “Nhiệt tại kim lư phóng”.  “Khoảnh khắc”: Rất nhanh chóng. “Nhân uân”: Diễn tả khói hương bốc cuồn cuộn, sau khi đốt hương xong, đàn hương này – toàn là nói đàn hương – khói hương xông mù mịt. 
 
      “Tức biến mãn thập phương” (liền trọn khắp mười phương): Ở trên đã nói là “phần khởi xung thiên thượng”, “thiên thượng” là “biến mãn thập phương”. Chữ “phương” ở đây chỉ mười phương chư Phật, Bồ Tát. “Thiên thượng” có nghĩa như thế đấy. Tiếp đó, bài kệ nêu lên một công án: 
 
      “Tích nhật Da Thâu, miễn nạn tiêu tai chướng”: Bà Da Thâu Đà La (Yasodharā) là phi tử của Phật Thích Ca Mâu Ni. Vì sao lại nêu tên bà? Vì Giới Định. Thích Ca Mâu Ni Phật quyết định muốn xuất gia, phụ vương bảo: “Ngươi muốn xuất gia thì phải có con để lại rồi mới được xuất gia. Ngươi xuất gia rồi, gia tộc ta bị đứt dòng ư?” Ngay lúc đó, Thích Ca Mâu Ni Phật bèn chỉ vào phi tử Da Thâu Đà La, nói: “Nàng đã mang thai!” Da Thâu Đà La nghe lời ấy rùng mình một cái, quả thật bà đã hoài thai; sáu năm sau mới sanh La Hầu La. Bởi thế, đương thời rất nhiều người hoài nghi La Hầu La (Rāhula) chẳng phải là con của Thích Ca Mâu Ni Phật. Chồng bà Da Thâu Đà La đã bỏ đi cả sáu năm rồi, sao [bây giờ] mới sanh đứa bé này? Bởi thế, họ hủy báng, phê bình, đơm đặt đủ chuyện hết sức khó chịu. Bà Da Thâu Đà La bèn bồng đứa bé, phát thệ: “Nếu quả thật đứa bé này là con Thích Ca Mâu Ni Phật, hai mẹ con chúng tôi nhảy vào hầm lửa sẽ chẳng bị lửa thiêu!” Bà làm như thế, quả nhiên cả hai mẹ con an nhiên vô sự trong lửa hừng. Khi đó mọi người đều tin, mọi lời đồn nhảm cũng chấm dứt. Giới Định Chân Hương đấy! Bởi thế “miễn nạn tiêu tai chướng!” Phụ vương cha bà cũng tin tưởng, trong là gia tộc, tức vương tộc, ngoài là nhân dân, toàn quốc thấy sự kiện ấy, mọi người chẳng dị nghị nữa! Đấy là một mẫu chuyện về cuộc đời của tôn giả La Hầu La. Đấy là sự cảm ứng của Giới Định. Tiếp đó, xưng ba lần: 

      “Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát”.
 
Nam-mô là tiếng Phạn, nghĩa là quy y, quy mạng. Hương Vân Cái là tỷ dụ khói hương kết thành lọng báu trên không trung. Bồ Tát là Giác Hữu Tình, Ma Ha Tát là đại Bồ Tát. Hương Vân tượng trưng cho Giới Định, Giới Định giác ngộ hết thảy hữu tình chúng sanh, Hương Vân mang ý nghĩa như vậy. 
 
Hương Vân Cái chẳng phải là Bồ Tát ư? Hương Vân Cái đúng là Bồ Tát. Chỉ cần chân chánh giác ngộ chúng sanh, chúng sanh do người ấy được khai ngộ thì người ấy là Bồ Tát. Bồ Tát chẳng có hình tướng nhất định, Như Lai cũng chẳng có hình tướng nhất định, hóa thân trong hữu tình chúng sanh, hóa thân trong vô tình chúng sanh, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Đó là đại ý bài Hương Tán. Bây giờ đã hết giờ rồi. 
 
 
Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký
中峰三時繫念法事全集講記
Chủ giảng: Lão pháp sư Thích Tịnh Không 
Giảng tại: Tịnh Tông Học Viện Úc Châu
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Nam Mô A Di Đà Phật!